CHỨNG NHẬN HỢP QUY GẠCH Đoàn đã làm việc và yêu cầu đơn vị cam kết nếu có sản phẩm trên thị trường đoàn sẽ đề nghị thu hồi giấy phép hợp quy và khi sản xuất và có sản phẩm cung cấp ra thị trường phải thông báo cho Bộ GTVT
I. chứng nhận hợp quy NPK Phí thẩm xét hồ sơ công bố lần đầu phù hợp quy định ATTP đối với sản phẩm thực phẩm chức năng và thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là 1
- Các nghiên cứu khoa học về bón phân cho cây lúa cho thấy, để đạt năng suất bình quân 8 tấn thóc/ha, cây lúa lấy đi từ đất khoảng 145kgN; 60kg P2O5; 150kg K2O, 250kg SiO2, 23kg MgO, 20kg CaO, 5kg S, 2kg Fe, 200g Zn, 150g B và 150g Cu trên mỗi ha.Như vậy thực tế cây lúa không chỉ cần 3 chất dinh dưỡng là đạm N lân P2O5, kali K2O mà còn cần silic nhiều hơn cả đạm, magiê MgO, vôi CaO, lưu huỳnh S với số lượng đáng kể, đồng thời các chất vi lượng như kẽm Zn, Bo B, sắt Fe và đồng Cu.Qua khảo sát thực tế lúa vụ xuân ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Hồng và trung du Bắc Bộ cho thấy, ở địa phương nào bà con nông dân sử dụng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển đã giải quyết được 3 vấn đề lớn tồn tại trong sản xuất lúa hiện nay là: Giảm thiểu sâu bệnh gây hại, giảm thuốc trừ sâu, giảm lúa đổ ngã khi gặp mưa dông và năng suất lúa ngày càng tăng.Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng cho cây lúa khác biệt các loại phân bón NPK thông thường ở chỗ: Ngoài các yếu tố dinh dưỡng đa lượng NPK giống như các loại phân bón NPK thông thường, Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển còn có đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng trung lượng như: Silic, magiê, can xi, lưu huỳnh chiếm tỷ lệ lớn trong phân bón, đồng thời các chất vi lượng kẽm, bo, sắt, đồng cũng rất cân đối. Bón phân NPK Văn Điển tức là đồng thời cung cấp đầy đủ một lúc 13 yếu tố dinh dưỡng cho cây lúa. Tất cả các yếu tố dinh dưỡng trong phân bón NPK Văn Điển đều được cây lúa hấp thụ dễ dàng và hầu như không bị rửa trôi trong nước.Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển cho lúa có các loại: NPK 6.11.2 và NPK5.10.3 dùng để bón lót trước khi cấy hoặc gieo sạ. NPK 16.5.17 dùng để bón thúc với hàm lượng các chất dinh dưỡng trong các loại phân trên như sau:- NPK 6.11.2 N = 6%; P = 11%; K = 2%; MgO = 10%; SiO2 = 15%; CaO = 20%; S = 2% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 66%.- NPK 5.10.3 N = 5%; P = 10%; K = 3%; MgO = 8%; SiO2 = 15%; CaO = 15%; S = 1% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 58%.- NPK 16.5.17 N = 16%; P = 5%; K = 17%; MgO = 5%; SiO2 = 7%; CaO = 8%; S = 1% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 59%.Với cách bón trước khi cấy hoặc trước khi gieo sạ hàng, mỗi sào Bắc Bộ 360m2 được bón từ 20-25kg NPK6.11.2 hoặc sử dụng loại NPK5.10.3. Sau khi cấy khoảng 2 tuần khi lúa ra lá mới lá nõn chuối thì bón thúc 12-15 kg NPK 16.5.17, đối với lúa gieo sạ hàng thì được bón thúc ngay khi lúa có 3-4 lá.- Với chủng loại và cách bón như trên, phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển đã cung cấp đầy đủ cân đối tất cả các yếu tố dinh dưỡng mà cây lúa cần trong suốt thời gian sinh trưởng. Vì vậy cây lúa khỏe phát triển nhanh cân đối, đẻ nhánh gọn, cứng cây, dày lá, lá xanh sáng, các đối tượng sâu bệnh gây hại như cuốn lá nhỏ, rầy nâu, đạo ôn giảm 70-80% trên đồng ruộng. Khi thu hoạch, lá đòng vàng như lá gừng, lúa cứng cây không đủ ngã, hạt mẩy, vỏ hạt thóc sáng, năng suất cao, đặc biệt người trồng lúa giảm sử dụng thuốc trừ sâu, giảm công chăm bón và tăng thu nhập do lúa đạt năng suất cao và chất lượng tốt. P.V. Mặt hàng phân bón NPK có hoặc không bổ sung trung vi lượng loại khác thuộc mã số 3105.20.00.00, thuế suất thuế NK ưu đãi 6%. Đó là hướng dẫn của Tổng cục Hải quan trước vướng mắc của Công ty TNHH YARA Việt Nam và Công ty TNHH TM Hoàng Lê trong việc phân loại mặt hàng phân bón NPK có bổ sung trung vi hợp quy, phân bón npk lượng. Tổng cục Hải quan cho biết, căn cứ để phân loại mặt hàng này là Biểu Thuế NK ưu đãi ban hành kèm theo Thông tư 184/2010/TT-BTC; tham khảo chú giải chi tiết HS 2007 nhóm 31.05. Doanh nghiệp nên liên hệ với cục hải quan tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp làm thủ tục NK để được giải quyết cụ thể. T.Tr ..
Như Thanh Niên đã thông tin, Đội Quản lý thị trường số 4 Phú Yên kiểm tra, phát hiện trong kho của công ty này có 1.000 bao loại 50 kg/bao được đóng gói mang nhãn hiệu phân bón NPK của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Hoàng Long Vina. Tại thời điểm kiểm tra, trên bao bì sản phẩm này không ghi hàm lượng, thành phần phân bón, ngày sản xuất và hạn sử dụng. Lực lượng chức năng đã tạm giữ toàn bộ lô hàng và lấy mẫu gửi đến Trung tâm phân tích và kiểm nghiệm Bình Định kiểm nghiệm với kết quả không phải là phân NPK. Chủ doanh nghiệp này thừa nhận trong bao đựng bột diatomit, do doanh nghiệp tự xay, nghiền, đóng bao để giao cho một đối tác ở TP.HCM và số bao bì mang nhãn hiệu của Công ty Hoàng Long Vina là do đối tác này cung cấp. Đức Huy. Xuất khẩu:Áo sơ mi nam dài tay: 5 USD/chiếc Chi cục HQ điện tử Hải PhòngÁo jackét nữ: 13,74 USD/cái Chi cục HQ Biên HòaQuần lót 6162268: 3,39 USD/cái Chi cục HQ Biên HòaCà phê bột hòa tan VNSX: 49 CNY/kg Chi cục HQ CK Lao CaiTinh bột sắn do VNSX: 5.120.000 đ/tấn Chi cục HQ Hữu Nghị Lạng SơnChuối sấy khô 15kg/thùng: 825.000 đ/thùng Chi cục HQ Cốc Nam Lạng SơnỚt quả tươi: 2 CNY/kg HQ CK Bí Hà Cao BằngHoa cẩm chướng: 0,2 USD/cành Sân bay Tân Sơn NhấtTỏi củ khô: 251 USD/tấn HQ CK Lao Bảo Quảng TrịHạt sen: 2,2 USD/kg HQ cảng Sài gòn KVI Nhập khẩu:Gỗ hương tía xẻ: 460 USD/m3 Ck Nam Giang Quảng NamGỗ căm xe xẻ: 400 USD/m3 HQ CK Cha Lo Quảng BìnhAntimon dạng thỏi: 2.500 USD/tấn HQ CK Ka LongHệ thống làm mát máy biến áp truyển tải bằng giấy cách điện: 6.465,68 USD/bộ Chi cục HQ Bắc Hà Nội - Hàng khôngMáy làm nến nhỏ: 640 USD/cái Chi cục HQ Nam ĐịnhThiếc dương cực: 9.000 USD/tấn Chi cục HQ CK Lao CaiPhân bón NPK: 428,50 USD/tấn Cảng Qui Nhơn Bình ĐịnhGỗ hương xẻ nhập khẩu từ Lào 639,00 USD/m3 HQ CK Cha Lo Quảng BìnhXe ôtô đầu kéo sản xuất năm 2009 Huyndai HD700: 75.000 USD/cái CK cảng Sài Gòn KV IIIPhân bón DAP bao 50kg N=18%, P2O5= 46%: 375 USD/tấn HQ Ga đường sắt Lao Cai./.Theo Infotv. Bón phân NPK - S Lâm Thao hợp lý, cây ngô sẽ cho năng suất cao. 1. Một số khái niệm chung Quá trình sinh trưởng, phát triển của ngô chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Từ nảy mầm, ra lá đến xuất hiện mô ở các cơ quan sinh sản. + Thời kỳ nảy mầm từ gieo đến 3 lá thật: - Phụ thuộc nhiều vào chất dinh dưỡng của nội nhũ. - Sau khi có 3 lá thật, lượng dinh dưỡng có trong nội nhũ hạt, cây non chuyển từ sống nhờ dinh dưỡng trong hạt sang tìm kiếm thức ăn từ đất và dinh dưỡng bổ sung. + Thời kỳ từ 3 lá đến phân hóa hoa: Cây ngô cần độ ẩm đất từ 65 – 75%, tơi xốp, đủ oxy cho rễ phát triển… cần đủ dinh dưỡng. Bón thúc kịp thời ở giai đoạn 3 – 4 lá. Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Lá và cơ quan sinh sản phát triển mạnh – xuất hiện nhị cái. + Thời kỳ phân hóa hoa – trỗ cờ: Cây ngô lớn nhanh, phân hóa tạo các bộ phận hoa cờ và bắp – quyết định năng suất ngô. Lá và đốt phát triển nhanh – cuối giai đoạn thoát bông cờ khỏi bẹ lá. Cần bón thúc, kết hợp xới đất và vun luống lên cao cho ngô. + Thời kỳ nở hoa trỗ cờ, tung phấn, phun râu: Diễn ra trong khoảng 10 – 15 ngày, ngô lai tập trung trong khoảng 7 – 10 ngày. Ngô tung phấn, nhận phấn, thụ tinh. Nhiệt độ thích hợp 22 – 28oC, nhiệt độ <13oc và="">35oC hạt phấn mất sức sống và chết. Độ ẩm không khí thích hợp là 80%, độ ẩm đất thích hợp 80% độ ẩm bão hòa. + Thời kỳ chín thụ tinh đến chín: Thời kỳ này kéo dài 30 – hop quy, phan bon npk 45 ngày tùy từng giống, trong đó: - Chín sữa 10 – 15 ngày, - Chín sáp 10 – 15 ngày, - Chín hoàn toàn 10-15 ngày. Thời kỳ chín, các chất dinh dưỡng vận chuyển từ lá vào hạt; vai trò quang hợp của bộ lá vẫn quan trọng, 60 – 80% sản phẩm quang hợp từ lá vận chuyển vào hạt; yêu cầu nhiệt độ của thời kỳ này là 20 – 25oC, ẩm độ đất là 60 – 70% độ ẩm bão hòa. 2. Đất và thời vụ trồng ngô 2.1 Đất trồng ngô Cây ngô thích nghi với nhiều loại đất khác nhau, nó có thể trồng được trên đất feralit và feralit mùn trên núi cao như ở Quản Bạ, Hà Giang. Ngô sinh trưởng tốt và cho năng suất cao trên đất đen đá vôi cao nguyên Nà Sản, Mộc Châu, Sơn La, ngô cũng cho năng suất cao trên đất phát triển trên đá bazan ở Đăk Lăk. Ở đồng bằng, ngô có thể trồng được và cho năng suất cao trên phù sa sông, đất bạc màu, đất phèn sau 2 vụ lúa. Nhiều diện tích ngô được trồng trên đất bãi bồi ven sông. 2.2 Giống và thời vụ trồng Ngô phân bố rộng trên phạm vi toàn quốc, tùy theo điều kiện khí hậu mà thời vụ gieo trồng ngô khác nhau ở các vùng, song chủ yếu có các vụ chính là: đông xuân, xuân hè và thu đông. 2.2.1. Giống ngô Giống ngô được phân theo 6 nhóm giống: Giống ngô tự thụ phấn, giống ngô lai quy ước, giống ngô lai không quy ước, ngô nếp, ngô đường và ngô rau. Mỗi giống có thời gian sinh trưởng khác nhau ở các vụ trồng trong năm. Dưới đây là một số giống ngô đang được trồng phổ biến hiện nay trong vụ đông với thời gian sinh trưởng như sau: - Nhóm giống ngô tự thụ phấn: - Nhóm giống ngô lai quy ước. - Nhóm giống ngô không quy ước. - Nhóm giống ngô nếp. - Nhóm giống ngô đường. - Ngô rau. 2.2.2. Thời vụ gieo trồng ngô đông - Vụ thu gieo vào cuối tháng 7 đầu tháng 8. - Vụ thu đông ở miền núi nên gieo trước 25.8 để có năng suất cao. - Vụ đông nên kết thúc trồng trước ngày 30.9 chậm nhất đến 5.10 đối với giống ngắn ngày. Đối với vụ đông ở phía Bắc nếu gieo sau 20.9 thì phải làm bầu. 3. Lượng phân bón NPK-S Lâm Thao cho ngô đông bảng. Thời kỳ bón Liều lượng bón kg/gốc Cách bón Đợt 1 Cuối tháng 3 - đầu tháng 4 + 0,5 – 0,7kg/gốc NPK 10.12.5 Đào lật đất xung quanh tán lá cà phê cách gốc 20 - 30cm rộng ra 15 - 20cm, sâu 5cm rải đều phân NPK Văn Điển sau đó lấp đất kín phân. - ở những nơi điều kiện tưới khó khăn nên lợi dụng đất còn ẩm sau mưa để bón phân. - Nếu đất dốc thì bón phân vào hố giữ màu rồi phủ đất, cỏ lá mục kín phân. Đợt 2 Tháng 6 + 0,6 – 0,8kg/gốc NPK 12.8.12 Đợt 3 Tháng 8 - 9 + 0,7 - 0,9kg/gốc NPK 16.6.16 .. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu nông học của các viện, trường, trung tâm khuyến nông đã xác định cứ 1 tấn mía cây nguyên liệu không kể đọt, lá… cây lấy đi từ đất: 12 kg N; 0,46 kg P 2 O 5 ; 14,4 kg K 2 O; 0,5kg MgO; 0,42kg CaO; 0,40kg SiO 2 , 0,25kg S và các chất vi lượng Fe, Cu, Bo, Zn, Co, Mo….. Thực tế đất trồng mía ở các vùng của nước ta hầu hết là đất chua, độ pH trong khoảng từ 3 - 4,5; lại rất nghèo chất canxi, lưu huỳnh, Bo và những chất vi lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cây mía phát triển tốt nhất trên đất có pH từ 5,0 - 7,0 và phải có hàm lượng canxi, manhê và các chất trung, vi lượng từ trung bình trở lên. Thông thường, bà con thường bón vôi để cải tạo độ chua và bổ sung canxi.Tuy nhiên, bón vôi sẽ làm chai đất, hơn nữa bón nhiều vôi cây dễ bị thiếu kali, thiếu Bo, kẽm... Nắm bắt được nhu cầu thiết yếu này Cty CP Phân lân Văn Điển đã cho ra đời sản phẩm phân bón đa yếu tố NPK chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng N,P,K các chất trung lượng như canxi, ma nhê, các chất vi lượng như kẽm, bo, mô líp đen… chuyên dùng cho cây mía. Bón phân Văn Điển cây mía khỏe, lóng to, mắt nhỏ, lá phát triển dựng đứng tăng khả năng quang hợp Đặc biệt là các chất dinh dưỡng trong phân đa yếu tố NPK Văn Điển không bị rửa trôi, có pH từ 8- 8,5 nên khi bón sẽ cải tạo nâng cao pH đất, là nguồn dự trữ dinh dưỡng cung cấp từ từ đầy đủ, cân đối cho cây Mía. Để giúp bà con nông dân chăm bón cho cây mía đạt được năng suất cao, chất lượng đường tốt; Công ty chúng tôi xin giới thiệu cách sử dụng phân bón đa yếu tố ĐYT NPK Văn Điển cho cây mía: 1. Loại phân bón: - Bón lót: Sử dụng các loại phân ĐYT NPK 6.12.5 chuyên bón lót cho mía N=6%; P 2 O 5 =12%; K 2 O=5%; S=2%; MgO=8%; CaO=16%; SiO 2 =15% ngoài ra có các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 64%. - Bón thúc: Sử dụng phân ĐYT NPK 15.5.20 chuyên dùng bón thúc N=15%; P 2 O 5 =5%; K 2 O=20%; S=2%; MgO=5%; CaO=8%; SiO 2 =7% ngoài ra có các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%. 2. Lượng bón: Lượng bón cho 1ha Chủng loại Mía tơ Mía gốc Ghi chú Phân hữu cơ 20 – 30 tấn 20 - 30 tấn Loại tốt Bún lót: - Phân NPK 6-12- 5 chuyên lót mía 250 - 350 180 - 200 Bún thúc: - Phân NPK 15 - 5 - 20 chuyên thúc mía 500 - 600 500 - 600 3. Cách bón: - Bón lót rải cùng phân chuồng ủ hoai theo rạch đào 250-300 kg loại phân NPK 6-12-5 chuyên bón lót mía - Bón thúc đẻ nhánh 250- 300 kg loại phân NPK 15-5-20 chuyên bón thúc mía - Bón thúc vươn lóng 250- 300 kg loại phân NPK 15-5-20 chuyên bón thúc mía Rạch dọc hàng bón kết hợp vun gốc, tưới đủ ẩm Với mía gốc: Sau khi cuốc bỏ gốc cũ rạch dọc hàng rải phân hữu cơ hoai + 250 - 300 kg loại phân NPK 15-5-20 chuyên bón thúc mía rồi lấp đất kín phân kết hợp tưới đủ ẩm. Bón phân Văn Điển cây mía khỏe, lóng to, mắt nhỏ, lá phát triển dựng đứng tăng khả năng quang hợp. Đặc biệt, do có chất silic nên lá mía dày, vỏ bóng cứng hạn chế sâu đục thân và nấm bệnh, tăng hàm lượng đường saccaro, giúp cho quá trình sản xuất đường, thu được chất lượng đường cao. Mía được bón phân Văn Điển vỏ mía có màu sắc đậm hơn không bị nhạt màu như các loại phân khác. Việc UBND huyện ra lệnh cấm lưu thông với một sản phẩm hàng hóa được sản xuất hợp qui là chưa nơi nào có tiền lệ, bởi khi đối chiếu với Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa số 05/2007/QH12 do Quốc hội ban hành có hiệu lực từ 01/07/2008, Nghị định số 113/2003/NĐ-CP ngày 7/10/2013 của Chính phủ về quản lý sản xuất kinh doanh phân bón, Nghị định số 15/2010/NĐ-CP ngày 01/03/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh phân bón thì văn bản trên của UBND huyện Đăk Mil đều sai trái. Nhiều hoạt động hưởng ứng chiến dịch Giờ Trái đất tại Quảng Ninh Phát hiện hóa thạch hơn 200 triệu năm tuổi của động vật ăn thịt khổng lồ Phát hiện dấu vết vụ va chạm lớn của thiên thạch với Trái đất Malawi quyết định tiêu hủy 4 tấn ngà voi Chính phủ Mỹ bị chỉ trích nếu cho phép Shell khai thác dầu ở Bắc Cực Chế tạo, hạ thủy chân đế giàn khoan siêu trường, siêu trọng. Theo Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam, nhu cầu bình quân về phân lân chế biến và NPK vào khoảng 100.000-120.000 tấn/tháng. Khi thời tiết rét đậm, lượng phân bón này sẽ tăng lên. Tuy nhiên, hiện nay, sản xuất phân bón trong nước đang gặp nhiều khó khăn do nguyên liệu đầu vào tăng cao. Đặc biệt, trong thời gian này, hợp quy, phân bón npk việc vận chuyển quặng nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất phân bón chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất cao điểm nên lượng phân lân chế biến và phân NPK dự trữ thấp nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón lại không hào hứng lắm với việc nhập khẩu lân chế biến và NPK do hiệu quả kinh tế mang lại không cao như việc nhập đạm urê.
II. chứng nhận hợp quy phân vi lượng Phí thẩm xét hồ sơ công bố lần đầu phù hợp quy định ATTP đối với sản phẩm thực phẩm chức năng và thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là 1
Từ vụ sau Công ty Supe Lâm Thao sẽ phối hợp với trạm Khuyến nông huyện tuyên truyền nhân rộng mô hình trên ra toàn huyện để nông dân sản xuất, mất chất và không thể thêm TE trung - vi lượng vì sẽ bị chảy thành nước do phản ứng hóa học khi có nước. Các nhiên liệu trên được đốt cháy triệt để nên gần như không sinh khói, chất lượng cũng như dễ gây sâu bệnh nhất là vụ đông xuân. Ảnh: Minh Tâm Ông Trần Anh Tuấn, cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng từ đầu vụ đến cuối vụ. Ông Nguyễn Đình Khang – Tổng Giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, nhất là vụ đông xuân 2010-2011...Để đảm bảo cho sản xuất vụ hè thu và bình ổn giá trên thị trường, Nhà máy Phân đạm Phú Mỹ sau khi nghỉ bảo dưỡng định kỳ đã hoạt động trở lại vào ngày 25/4/2008 nên sản lượng phân urê tháng 5 ước đạt 84 nghìn tấn, tăng 64,7% so với tháng 4. Riêng Tổng công ty Hóa chất, trong tháng 5, sản xuất phân lân ước đạt 128 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ; phân NPK ước đạt 184 nghìn tấn tăng 20,3% so với tháng 4/2007. Nhìn chung sản xuất phân bón trong nước cơ bản đảm bảo cung cầu cho vụ hè thu.HNM. CôngThương - Nguyên nhân bị phạt là do sản phẩm phân bón của 44 tổ chức, cá nhân trên có hàm lượng không giống với chất lượng công bố. Một số sản phẩm tiêu biểu như: phân bón lá cao cấp TN GROW và TN GREEN của Công ty TNHH vật tư nông nghiệp Tây Nguyên, phân hữu cơ khoáng BiMix của Công ty cổ phần cây trồng Bình Chánh, phân NPK 16-16-8 của Công ty phân bón Đồng Xanh... Công Luân. Trong đó , nhập khẩu phân đạm Urea tăng rất mạnh từ 850 tấn của tháng trước lên 74 ngàn tấn tháng 1/2009. Giá nhập trung bình đạt 285 USD/tấn, tăng 47 USD/tấn so với giá nhập khẩu tháng 12/08 nhưng lại giảm 25 USD/tấn so với giá nhập khẩu cùng kỳ năm trước.So với tháng 12/2008, lượng phân DAP nhập về trong tháng 01/2009 cũng tăng 11,82%; lượng NPK nhập khẩu tăng 26,06%.Trong khi nhập khẩu các loại phân bón trên tăng thì ngược lại nhập khẩu phân bón SA lại giảm 66,47% về lượng và giảm 69,17% về trị giá so với tháng 12/2008, còn so với tháng 1/2008 giảm 68,93% về lượng và giảm 82,03% về trị giá, đạt gần 23 ngàn tấn, trị giá 2,7 triệu USD. Giá nhập khẩu phân bón trung bình trong tháng 1/2009 đạt 329 USD/tấn, tăng 15 USD/tấn so với tháng trước nhưng lại giảm 28 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 1/2009 ngoại trừ giá ure tăng còn lại giá nhập khẩu các loại phân bón khác đều giảm so với giá nhập khẩu tháng cuối năm 2008. Cụ thể: DAP giá nhập trung bình giảm 49 USD/tấn, còn 403 USD/tấn; NPK giảm 129 USD xuống còn 394 USD/tấn, SA giảm 10 USD/tấn xuống còn 118 USD/tấn. Hiện các địa phương trên cả nước đã bước vào sản xuất vụ Đông Xuân, là vụ có nhu cầu phân bón lớn nhất so với các vụ khác trong năm. Dự kiến nhu cầu phân bón cho vụ Đông Xuân cả nước khoảng 870 ngàn tấn ure, 390 ngàn tấn SA, 430 ngàn tấn kali, 410 ngàn tấn DAP và 1,8 triệu tấn NPK. Trong đó, miền Bắc cần khoảng 270 ngàn tấn ure. Các địa phương ở Nam Bộ cần 480 ngàn tấn ure.Để có đủ số lượng phân bón phục vụ cho vụ Đông miền Bắc và Nam Bộ, ngoài việc các cơ sở sản xuất phân trong nước phải đẩy mạnh tiến độ sản xuất đảm bảo đủ 50% nhu cầu phân bón theo kế hoạch và hỗ trợ vốn vay để khẩn trương nhập khẩu 50% số lượng còn thiếu. Chủng loại phân bón nhập khẩu tháng 1/2009 Chủng loạiTháng 1/09So tháng 12/08Lượng tấnTrị giá ngàn USD% lượng% trị giáPhân bón các loại178.96358.90620,7626,72Phân Ure74.02521.1101.817,252197,06Phân NPK13.5005.32126,06-4,93Phân DAP59.49424.00311,82-0,32Phân SA22.9782.716-66,47-69,17Phân bón loại khác8.0148.070-32,67-28,69. Anh Trần Duy An, Chủ tịch HĐTV Cty TNHH Dinh dưỡng Nông nghiệp Quốc tế ATA gọi tắt là Cty ATA, là người đã nung nấu ý định SX phân NPK dạng viên nén từ nhiều năm trước. Ấy là khi thấy một số DN thử nghiệm SX phân hữu cơ dạng viên nén, anh An đã nghĩ ngay tới việc một ngày nào đó sẽ làm được điều tương tự với phân bón NPK. Năm 2009, khi thành lập Cty ATA, anh Trần Duy An đã bắt tay ngay vào việc SX phân bón NPK, nhưng vẫn theo kiểu truyền thống. Suốt 4 năm qua, để có được chỗ đứng trên thị trường, với phương châm Uy tín làm đầu”, Cty ATA đã luôn đặt vấn đề chất lượng lên trên hết. Trụ sở Cty ATA Điều này đã được khẳng định qua lời phát biểu đầy chân tình của PGS.TS Châu Cách trong buổi lể khánh thành trụ sở mới của Cty ATA: Tôi đã tư vấn về công thức SX phân NPK cho rất nhiều công ty phân bón ở Nam Bộ. Rất tiếc là nhiều Cty đã không làm theo công thức chuẩn. Họ nói với tôi rằng làm theo công thức mà bác tư vấn thì chắc chắn sẽ có phân bón đạt chất lượng tốt, nhưng làm thế thì chỉ có nước ăn cám. Nhưng phần lớn những Cty đã chọn con đường SX phân bón không đạt chất lượng như vậy, đến giờ đã bị phá sản hoặc làm ăn bê bết. Riêng Cty ATA, cũng nhờ tôi tư vấn về công thức, về chất lượng suốt mấy năm nay, lại luôn tuân thủ chặt chẽ công thức SX, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nhờ đó, tôi chưa từng phải nghe một lời phàn nàn nào về chất lượng phân NPK của Cty ATA, cũng như chưa từng thấy Cty này bị cơ quan chức năng xử phạt lần nào về chất lượng sản phẩm. Đây là một điều đáng mừng trong bối cảnh SX phân bón kém chất lượng, phân rởm đang lan tràn như hiện nay”. Chính nhờ luôn chú trọng về mặt chất lượng, giá cả lại cạnh tranh, nên sản phẩm phân bón NPK của Cty ATA đang dần có được chỗ đứng và niềm tin từ người trồng lúa ở nhiều tỉnh ĐBSCL. Không thỏa mãn với điều ấy, Trần Duy An cùng các cộng sự kỹ thuật trong Cty vẫn ngày đêm nung nấu ý tưởng phải SX bằng được NPK dạng viên nén. Cơ may đến với An khi anh tiếp cận được công nghệ SX thức ăn gia súc dạng viên nén gia đình. Công nghệ này khá phổ biến ở Mỹ và Canada. Ở bên đó, họ SX hàng loạt những máy cỡ nhỏ để SX thức ăn gia súc quy mô trang trại. Các chủ trang trại mua những cái máy này về, sử dụng nó để ép các phụ phẩm nông nghiệp thành những viên nén làm thức ăn cho gia súc hoặc chất đốt mùa đông trong trang trại của mình. Nhận thấy từ công nghệ này có thể học hỏi, sáng tạo ra công nghệ SX NPK dạng viên nén, anh An đã quyết định nhập về một cái máy SX viên nén thức ăn gia súc. Những khi rảnh rỗi, anh An cùng các cộng sự lại mày mò, tìm hiểu kỹ càng từng chi tiết của chiếc máy để từ đó có thể chế ra một chiếc máy làm được phân bón NPK dạng viên nén. Đây không hề là một công việc dễ dàng, bởi nguyên liệu SX thức ăn gia súc và nguyên liệu SX phân bón NPK là rất khác nhau. Mặt khác, là một DN chuyên SX phân bón nên việc SX NPK viên nén phải đạt khối lượng lớn để có thể tung ra thị trường, đáp ứng rộng rãi nhu cầu của nông dân. Vì thế, yêu cầu đặt ra với Cty ATA là phải chế tạo được một hệ thống SX NPK với công suất lớn chứ không phải chỉ là một cái máy nhỏ như cái máy ép thức ăn gia súc mà DN đã mua về. Với yêu cầu như thế, phải mất tới 2 năm trời, An cùng các cộng sự ở Cty ATA mới thành công trong việc tạo ra một dây chuyền SX phân bón NPK dạng viên nén. Như vậy, ở Việt Nam, ATA đã trở thành Cty đầu tiên làm ra được sản phẩm này. Mà nếu tính cả khu vực Đông Nam Á, đến nay ATA cũng là Cty duy nhất đã làm được điều ấy. Đầu tháng 10 vừa rồi, trước sự chứng kiến của lãnh đạo Chi cục BVTV Bình Phước, lãnh đạo xã Tân Thành, các nhà khoa học, cùng đông đảo các đại lý, DN cung ứng nguyên liệu đầu vào…, Cty ATA đã vận hành hệ thống SX phân bón NPK dạng viên nén. Hệ thống đã hoạt động một cách trơn tru, hoàn hảo, cho ra những viên nén NPK trước ánh mắt đầy hop quy, phan bon npk ngạc nhiên và thán phục của những người chứng kiến. Về sản phẩm NPK viên nén, anh Trần Duy An còn tiết lộ thêm một chi tiết rất thú vị, đó là sản phẩm này không tạo hạt bằng cách vo viên bằng hơi nước và sấy như các sản phẩm NPK khác. Thay vào đó, việc ép khô các hạt NPK được sử dụng công nghệ nén viên. Đây cũng chính là một sáng tạo độc đáo của Cty ATA. Vì sao lại không vo viên hơi nước và sấy mà ép khô? Anh Trần Duy An lý giải, nếu vo viên bằng hơi nước rồi sấy, sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, do NPK khi gặp nhiệt độ cao sẽ bốc hơi, mất chất và không thể thêm TE trung - vi lượng vì sẽ bị chảy thành nước do phản ứng hóa học khi có nước. Đó là lý do tại sao NPK SX trong nước có cộng TE nhưng thành phần rất nhỏ thường không quá 1% TE trong NPK SX trong nước thường dùng đơn vị ppm - tỷ lệ 1 phần triệu để đăng ký. Còn công nghệ ép khô không hề hấn gì tới chất lượng của hạt NPK. Sản phẩm NPK viên nén Mặt khác, nhờ công nghệ này 1 hạt NPK viên nén chứa từ 6 chất trở lên và có đầy đủ NPK +TE cần thiết cho cây trồng phát triển, đặc biệt bổ sung được hơn 10% TE trở lên trong NPK. Ưu điểm nữa của NPK dạng viên nén này là cực kì tan nhanh, chỉ cần se nhẹ trên tay là sản phẩm tan chảy thành nước, nông dân dễ nhận biết chất lượng thật giả và thích hợp cho bón đất ruộng lẫn cây trồng cạn hay những vùng đất khô cằn thiếu nước như miền Trung và Tây Nguyên, giúp cây trồng hấp thu được tốt hơn so với phân bón NPK thông thường. Về giá thành, do máy móc được tạo ra trong nước nên chi phí đầu tư thấp, giá bán sản phẩm rẻ hơn so với NPK ngoại nhập từ 10 -20%. Cty ATA ngoài nhu cầu SX cho chính mình còn nhận hợp đồng gia công cho các đối tác khác. Cụ thể, trong ngày khai trương hệ thống SX NPK dạng viên nén Cty đã ký hợp đồng gia công với Cty TNHH Nông Nghiệp CANADAVINA viết tắt là Cty CANADAVINA - một Cty chuyên nghiên cứu và phân phân phối những sản phẩm NPK chuyên dùng cao cấp của châu Âu. Do yêu cầu của Cty CANADAVINA rất cao về hàm lượng TE trong sản phẩm cụ thể: Sản phẩm Hai Lúa Xanh chuyên dùng cho lúa bón đợt 1 và đợt 2 phải bổ sung 14% TE; sản phẩm Hai Lúa Đỏ chuyên dùng cho lúa đợt 3 phải bổ sung 10% TE; sản phẩm Dưa Hấu Xanh chuyên dùng cho dưa hấu giai đoạn cây con bổ sung 13% TE; sản phẩm Dưa Hấu Ngọt chuyên dùng cho dưu hấu giai đoạn nuôi trái phải bổ sung 10%, nên Cty CANADAVINA đã chọn lựa và tin tưởng giao cho Cty ATA SX 4 sản phẩm trên. TE - Trace Element là từ viết tắt của các chất trung - vi lượng nói chung bao gồm hơn 10 chất S, MgO, CaO, Cu, Zn…, là những chất quan trọng không thể thiếu đứng thứ hai sau các chất đa lượng NPK đối với cây trồng khi muốn phát triển, nếu thiếu TE cây trồng dễ bị sâu bệnh tấn công. Bón phân thiếu TE hay cung cấp TE không đầy đủ cũng là nguyên do chính dẫn đến sâu bệnh ngày càng tăng ở nước ta. Với việc đã ghi rõ trên bao bì hàm lượng TE như trên, ATA lại là Cty duy nhất ở VN cho đến nay đã dám khẳng định một cách rất cụ thể hàm lượng TE trong sản phẩm NPK của mình. Hàm lượng TE ở đây là hàm lượng hữu hiệu, tức là cây trồng có thể hấp thụ được hết. Trong khi đó, các sản phẩm NPK khác có ghi cộng TE trên bao bì, cũng chỉ mới ghi chung chung là +TE, mà chưa nói rõ hàm lượng cụ thể là bao nhiêu hay ghi rất thấp thường dưới 1%. Đây cũng là một nỗ lực, một bước tiến rất đáng ghi nhận của Cty ATA trong việc nâng cao và khẳng định chất lượng sản phẩm của mình. Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu, SX những sản phẩm mới, độc đáo và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, Cty ATA cũng đã đầu tư xây dựng trụ sở khang trang trên diện tích gần 2.000 m2 ở ấp 7, xã Tân Thành, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước. Trụ sở có đầy đủ các phòng ban, phòng thí nghiệm, máy móc, thiết bị, khu tập thể cho cán bộ, nhân viên, công nhân. Điều này thể hiện quyết tâm của Cty ATA trong việc đầu tư sâu và lâu dài vào lĩnh vực phân bón, để có thể đáp ứng được cả những yêu cầu khắt khe hơn khi mà ngành phân bón sẽ trở thành một ngành SX có điều kiện trong thời gian sắp tới.
Ngành phân bón và hóa chất hiện đang giảm sản lượng, so với cùng kỳ, sản lượng phân NPK tháng 11 ước đạt 21.300 tấn giảm 9,5%; phân DAP ước đạt 26.000 tấn, giảm 4,5%; phân urê ước đạt 208.100 tấn, giảm 19,1%. Tính chung 11 tháng so với cùng kỳ, phân NPK ước đạt trên 2,2 triệu tấn, giảm 3%; phân DAP ước đạt 210.000 tấn, giảm 19,2%; riêng sản lượng phân urê ước đạt gần 1,9 triệu tấn, tăng 19,8%. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, các loại phân bón nhập khẩu trong 9 tháng 2013 đã đạt tới 3,36 triệu tấn, tăng 20,5% so với cùng kì với trị giá tương đương 1,26 tỷ USD tăng 5,3% yoy. Trong đó, sản lượng urê nhập khẩu lên đến 546,3 nghìn tấn +25,1% yoy và đạt trị giá 184,4 triệu USD +2,7% yoy. Việc UBND huyện ra lệnh cấm lưu thông với một sản phẩm hàng hóa được sản xuất hợp qui là chưa nơi nào có tiền lệ, bởi khi đối chiếu với Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa số 05/2007/QH12 do Quốc hội ban hành có hiệu lực từ 01/07/2008, Nghị định số 113/2003/NĐ-CP ngày 7/10/2013 của Chính phủ về quản lý sản xuất kinh doanh phân bón, Nghị định số 15/2010/NĐ-CP ngày 01/03/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh phân bón thì văn bản trên của UBND huyện Đăk Mil đều sai trái. Số phân bón này do Công ty TNHH Mặt trời xanh, có trụ sở tại Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Nội sản xuất. Trong khi trên bao bì quảng cáo là phân bón NPK cao cấp, được sản xuất trên dây chuyền hiện đại thì thành phần chủ yếu lại là bột đá và đất sét. Kết quả giám định cho thấy, hàm lượng hợp quy, phân bón npk các thành phần cơ bản chỉ đạt 10-20% so với đăng ký. Giá bán lẻ phân bón sản xuất trong nước cũng giảm đáng kể, giá phân NPK còn 520.000 đồng/bao, giảm 110.000 đ/bao so với 2 tháng trước; Phân kali và lân cũng giảm từ 350.000-400.000 đồng/bao. Mặc dù giá giảm nhưng do vẫn chưa vào vụ, giá lúa gạo giảm mạnh và khó tiêu thụ nên nhu cầu phân bón vẫn rất thấp. Trong khi đó, sau một thời gian giảm mạnh, nhập khẩu phân bón của Việt Nam trong thágn 10 đã tăng khá mạnh trở lại, đạt trên 174 ngàn tấn phân bón các loại với kim ngạch 108,78 triệu USD, tăng 30,9% về lượng và tăng 35,53% về trị giá so với tháng trước còn so với tháng 10/2007, giảm 53% về lượng nhưng lại tăng 2,1% về trị giá. So với tháng 9/2008, nhập khẩu hầu hết các chủng loại phân bón đều tăng khá. Trong đó, lượng phân bón DAP nhập về tăng mạnh nhất, tăng từ 290 tấn của tháng trước lên trên 39 ngàn tấn; tiếp đến Urea tăng 101%, NPK tăng 25%; SA tăng 51,1%. Nhưng so với cùng kỳ năm 2007 khối lượng nhập khẩu các loại phân bón vẫn giảm khá mạnh như lượng urê nhập về giảm 36%; SA giảm 43,1%; DAP giảm 40,4%; NPK giảm 69,7%.Tính đến hết tháng 10/2008, tổng nhập khẩu phân bón các loại đạt 2,815 triệu tấn với trị giá 1,39 triệu USD, giảm 6,1% về lượng nhưng lại tăng 88,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Chủng loại nhập khẩu phân bón tháng 10 và 10 tháng năm 2008: Tên hàng Tháng 10/208 So với tháng 9/208 Tháng 10/08 Lượng tấn Trị giá ngàn USD Lượng % Trị giá % Lượng tấn Trị giá ngàn USD PB các loại:174.324108.77830,9035,532.815.7601.394.911Phân Urea63.38632.824100,78143,68694.100281.904Phân NPK2.6842.44425,0119,92155.35488.280Phân DAP39.11846.919379.774354.476Phân SA54.19717.18651,8053,25615.871167.914PB loại khác13.9389.406-78,04-82,35969.661502.337 .. Cty CP Phân bón Bình Điền là đơn vị có doanh thu lớn nhất của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Nhà máy phân bón NPK Bình Điền – Ninh Bình đi vào hoạt động sẽ nâng sản lượng của Cty lên 1,5 triệu tấn/năm, trong tổng số trên 3 triệu tấn phân bón NPK của toàn Tập đoàn. Dự án Bình Điền – Ninh Bình là 1 trong 7 dự án sẽ được Tập đoàn Hóa chất triển khai xây dựng trong những năm tới, hướng đến cung cấp đủ nhu cầu phân bón trong nước và phục vụ xuất khẩu, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới. Ông Nguyễn Đình Khang – Tổng Giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Mặc dù giá phân bón và nguyên liệu sản xuất phân bón trên thị trường thế giới tăng, nhất là phân DAP và phân SA; giá Kali bắt đầu tăng trở lại ở mức 410 USD/tấn nhưng giá phân bón trong nước chỉ tăng nhẹ do nguồn cung dồi dào. Các doanh nghiệp cũng rất hạn chế nhập khẩu phân bón để theo dõi biến động của thị trường. Hiện giá phân urê Hà Bắc khoảng 6.650 đồng đến 6.750 đồng/kg, urê Phú Mỹ 6.900 đồng/kg; phân NPK ở mức 3.050 đồng/kg; supe lân Lâm Thao 2.060 đồng/kg. Tình hình sản xuất phân bón hai tháng qua vẫn tiếp tục giảm. Phân urê chỉ đạt hơn 132.000 tấn, giảm 20% do sản lượng của Nhà máy Phân đạm Hóa chất Hà Bắc giảm tới 61,4% vì sự cố phải dừng máy để sửa chữa từ giữa tháng hai; phân NPK đạt 166.000 tấn, giảm 12,1%; phân lân cũng chỉ đạt 213.000 tấn, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm ngoái./. Văn Xuyên Vietnam+. Vừa qua, tại Hà Nội, sản phẩm phân bón Sinh thái Việt Mỹ là một trong hơn 60 thương hiệu được BTC Chương trình Truyền thông, quảng bá thương hiệu vững mạnh - vượt qua suy thoái - hội nhập toàn cầu do Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam, Trung tâm Hỗ trợ xúc tiến thương mại - đầu tư công nghệ phối hợp tổ chức trao Cúp chứng nhận Thương hiệu nổi tiếng thế kỷ 21 - Thương hiệu vượt thời gian”. Đặc điểm nông học và yêu cầu ngoại cảnhCây khoai lang có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn phát triển rễ sợi, thân, lá và giai đoạn hình thành và phát triển củ. Khoai lang là cây trồng không kén đất có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, thích nhất là đất cát pha, tơi xốp, tầng đất canh tác càng dày càng tốt, thoát nước, pH=5-6,8.Nhu cầu và vai trò các chất dinh dưỡng Khoai lang được bón phân NPK Văn Điển cho năng suất cao, chất lượng củ tốt. Đạm có vai trò quyết định trong quá trình trao đổi chất và năng lượng cũng như các hoạt động sinh lý của cây. Giúp cho thân, lá và bộ rễ phát triển mạnh trong giai đoạn đầu và hình thành củ và trọng lượng củ trong giai đoạn sau. Tuy nhiên phần lớn đạm tập trung ở lá do vậy không nên bón nhiều đạm vì bón nhiều đạm khoai lang sẽ chủ yếu phát triển thân lá và ảnh hưởng đến năng suất. Lân có vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp, quá trình hình thành và phát triển của bộ rễ, đặc biệt là rễ củ, bón đầy đủ lân sẽ làm cho số lượng rễ củ nhiều góp phần cho tăng năng suất và hàm lượng tinh bột tăng, giảm tỷ lệ chất sơ trong củ. Nhu cầu kali của khoai lang còn cao hơn cả khoai tây và sắn, kali có tác dụng tăng khả năng chống chịu của cây, tích lũy tinh bột và đường. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bón phân hữu cơ cho khoai lang làm tăng năng suất rất lớn, mức bội thu đạt 29-34 tạ/ha khi bón phân chuồng và 22-23 tạ/ha khi bón rơm rạ. Ngoài ra khoai lang còn hút rất nhiều manhê, canxi, silic và các chất vi lượng như bo, molipđen… trong suốt quá trình sinh trưởng nhằm tăng khả năng quang hợp, tích lũy vận chuyển tinh bột, đường và các vitamin.Sử dụng phân đa yếu tố NPK Văn Điển bón cho hợp quy, phân bón npk cây khoai langPhân đa yếu tố NPK Văn Điển, sản xuất từ phân lân nung chảy Văn Điển, đạm Urê và kali, ưu điểm của phân đa yếu tố NPK Văn Điển hơn hẳn các loại phân NPK thông thường khác là: Đầy đủ các chất dinh dưỡng, đạm, lân, kali và các chất dinh dưỡng khác cần thiết cho cây trồng như vôi, manhê, silic, đồng, bo, mangan, sắt, kẽm...Bón phân đa yếu tố NPK Văn Điển, cây trồng phát triển khỏe, phát triển cân đối, hạn chế sâu bệnh, chịu hạn, chịu rét tốt, cây khoai cho năng suất cao, chất lượng nông sản tốt.Bón phân đa yếu tố NPK Văn Điển, làm cho đất ngày càng màu mỡ, giảm phèn, giảm rong rêu. Phân bón dùng cho cây khoai lang:- Phân NPK 4.12.7, dùng bón lót N=4%; P2O5=12%; K2O=7%; S=2%; MgO=8%; CaO=16%; SiO2=15 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co…- Phân NPK 9.9.12 dùng bón thúc N=9%; P2O5=9%; K2O=12%; S=2%; MgO=7%; CaO=12%; SiO2=9 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co…Khoai lang được bón phân ĐYT NPK Văn Điển sẽ cho củ to, ít mắt, vỏ nhẵn, hàm lượng đường, bột cao, lượng nước ít nên bảo quản được lâu, tránh được hiện tượng nhăn vỏ khi để lâu, cây khỏe, ít sâu bệnh.
III. chứng nhận ISO 22000 Dấu CR Quacert Trung tâm chứng nhận QUACERT không cấp quyền sử dụng dấu hợp quy không có số
Sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao sẽ tăng năng suất và chất lượng chè. Võ Văn Việt Hàng năm, các nước xuất khẩu chè lớn nhất là Kenya, Sri Lanka, Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam; các nước nhập khẩu chè lớn nhất là Liên bang Nga, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất, Ai Cập. Cây chè ưa nóng ẩm. Yêu cầu nhiệt độ của các giống chè rất khác nhau: Chè Shan thích hợp nhất 15-20 độ C thấp nhất - 50 độ C, cao nhất 32 độ C; các giống chè trung du thích hợp nhất 20-25 độ C thấp nhất 0 độ C, cao nhất 35 độ C. Khi nhiệt độ 10 -12 độ C cây chè ngừng sinh trưởng. Độ ẩm không khí phải đảm bảo 85 - 90% thì cây chè mới sinh trưởng tốt, khi độ ẩm dưới 70% thì năng suất chè có bị ảnh hưởng. 1. Yêu cầu về đất và dinh dưỡng Cây chè được trồng trên nhiều loại đất như đất bazan, phù sa cổ trên phiến thạch và sa thạch. Đất trồng chè phải có độ dày tầng canh tác ít nhất là 60cm, giữ ẩm và thoát nước tốt, có phản ứng chua pH 5,0-5,5 là thích hợp nhất. Khi pH > 6 hoặc pH < 4="" cây="" chè="" phát="" triển="" kém,="" khi="" ph=""> 7 cây chè có thể bị chết. Việc bón vôi cải tạo đất chua hoặc sử dụng phân bón cho cây chè cần chú ý duy trì pH trong khoảng 4,5 – 5,5. Cây chè thường được trồng với mật độ khoảng 10.000 hốc/ha. Trung bình năng suất 2 tấn chè búp khô lấy đi 80kg N, 23kg P2O5, 48kg K2O, 8kg MgO và 16kg CaO. Lượng hút dinh dưỡng của chè cần tính đến cả lượng dinh dưỡng bị mất theo cành và thân do đốn định kỳ. Như vậy, hàng năm cây chè hút tổng số khoảng 144kg N, 71kg P2O5, 62kg K2O, 24kg MgO và 40kg CaO. Những năm mới trồng, lượng đạm bón trong khoảng 120 – 240kg N/ha và tỷ lệ N: K2O là 1: 0,5; thời kỳ thu hoạch, tỷ lệ N: K2O là 1: 1 với lượng bón 240 - 300kg N và 240 -300kg K2O. Những nương chè cho năng suất cao đã bón tới 350kg N và 350kg K2O. Việc cung cấp các nguyên tố trung, vi lượng hợp lý làm tăng năng suất chè búp khô, cụ thể như sau: Bón bo B tăng 12,6%, kẽm Zn tăng 15,8%, magan Mn tăng 16,0%, đồng Cu tăng 12,8%, magiê Mg tăng 16,5%, lưu huỳnh S tăng 21,3%, molipden Mo tăng 11,6%, canxi Ca tăng 10,6%; bón đồng thời magiê Mg, lưu huỳnh S, molipden Mo, đồng Cu tăng 25,2%; bón đồng thời bo B, kẽm Zn, mangan Mn, canxi Ca tăng 19,8%; bón đồng thời molipden Mo, bo B, kẽm Zn, đồng Cu tăng 18,4%; bón đồng thời molipden Mo, bo B, kẽm Zn, đồng Cu, mangan Mn tăng 21,5%; bón đồng thời magiê Mg, lưu huỳnh S, molipden Mo, bo B, kẽm Zn, đòng Cu, mangan Mn tăng 25,4%. Bón phân trung vi lượng phối hợp làm tăng hiệu quả sử dụng N, P, K đối với chè Nguyễn Văn Chiến, 2007. Trong thành phần của phân bón NPK-S Lâm Thao ngoài đạm, lân, kali còn bổ sung khá đầy đủ và cân đối các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng như canxi, magiê, lưu huỳnh, kẽm, đồng, sắt, molipđen, bo... Do đó sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao sẽ tăng năng suất và chất lượng chè. 2. Sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao cho chè kinh doanh hái bằng tay Lượng phân bón Lâm Thao NPK-S 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5 được tính như sau: Lượng phân bón tính cho 1ha: - Bón lần 1 cuối tháng 2, đầu tháng 3: 612 – 750kg. - Bón lần 2 tháng 5÷6: 612 - 750kg. - Bón lần 3 tháng 8÷9: 500 - 667kg. Lượng phân bón tính cho 1 sào Bắc Bộ 360m2: - Bón lần 1 cuối tháng 2, đầu tháng 3: 22 - 27g. - Bón lần 2 tháng 5÷6: 22 - 27kg. - Bón lần 3 tháng 8÷9: 18 - 24kg. 3. Sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao cho chè kinh doanh hái bằng máy Trên nương chè hái bằng máy, lượng phân bón được sử dụng so với hái bằng tay cần tăng lên khoảng 35%. Lượng phân bón Lâm Thao NPK-S 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5 được tính như sau: Lượng phân bón tính cho 1ha: - Bón lần 1 cuối tháng 2, đầu tháng 3: 826 – 1.013kg. - Bón lần 2 tháng 5÷6: 826 – 1.013kg. - Bón lần 3 tháng 8÷9: 675 – 900kg. Lượng phân bón tính cho 1 sào Bắc Bộ 360m2: - Bón lần 1 cuối tháng 2, đầu tháng 3: 30 - 36kg. - Bón lần 2 tháng 5÷6: 30 - 36kg. - Bón lần 3 tháng 8÷9: 24 - 32kg. Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao cho các nương chè hái bằng tay và hái bằng máy theo đúng quy trình kỹ thuật để mang lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Tại Việt Nam, cây chè được trồng trên nhiều vùng ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên... Chè là cây công nghiệp dài ngày cho sản phẩm thu hái nhiều lần trong năm, trong đó sản phẩm thu hoạch búp chè chỉ chiếm 8 - 13% tổng toàn bộ sinh khối của cây chè. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê về tình hình nhập khẩu tháng 2 và hai tháng đầu năm 2009, nhập khẩu phân bón tăng tới gần 80% về lượng và tăng trên 66% về trị giá so với tháng 1/2009. Cụ thể tháng 1, cả nước nhập 179 ngàn tấn phân bón các loại, trị giá 59 triệu USD, theo ước tính tháng 2 lượng nhập khẩu này là 350 ngàn tấn, trị giá 110 triệu USD. Trong đó, đáng chú ý là phân Urê hai tháng đầu năm lượng nhập khẩu tăng tới trên 200% tương đương 194 ngàn tấn và trị giá tăng gần 188% 56 triệu USD so với cùng kỳ 2008.Theo phân tích của ông Hoàng Mạnh Tiến, Trưởng ban Kế hoạch Kinh doanh Tổng công ty Hóa chất Việt Nam: Những số liệu nêu trên tuy có hop quy, phan bon npk so sánh với cùng kỳ năm trước như cũng rất khó để đánh giá chính xác tình hình. Thực tế cuối năm 2007, các doanh nghiệp đều tăng lượng nhập khẩu, vì thế thời gian đầu năm 2008, mức nhập có giảm lại. Trong khi đó, hiện giá phân bón thế giới lại đang ở mức thấp nên các doanh nghiệp tăng lượng nhập khẩu cũng là điểu dễ hiểu.Ông Tiến dẫn ra: Trên thế giới hiện ngoài giá phân DAP từ mức 317 USD/tấn tăng lên 367 USD/tấn tăng 50 USD/tấn. Phân bón Urê chỉ tăng thêm 7-8 USD/tấn, còn các loại phân bón khác, giá tương đối ổn định. So với mức giá đỉnh” vào quý II/2008, giá phân bón hiện nay vẫn đang đứng ở mức thấp. Trong khi đó, hiện năng lực sản xuất trong nước mới đáp ứng được 100% nhu cầu về supe lân và phân lân nung chảy tương đương với sản lượng khoảng 1,5 triệu tấn, phân Urê chỉ đáp ứng được 10% nhu. Trong tháng 3 tới đây, khi dây chuyền sản xuất DAP của Tổng công ty Hóa chất đi vào hoạt động cũng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu tiêu dùng nội địa. Chia sẻ với thông tin trên, anh Vũ Khánh Thiện, Phó ban Thương mại Thị trường Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu cho hay: Mỗi năm nước ta vẫn nhập khẩu khoảng 4 triệu tấn phân bón các loại, tính bình quân mỗi tháng cả nước sẽ phải nhập khoảng 400 ngàn tấn. Vì vậy, số liệu nhập khẩu nêu trên không có gì phải báo động”.Đại diện của hai công ty trên cũng nhất trí ở điểm: Năm nay, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá cả nhiều mặt hàng nông sản tiếp tục giảm sút. Vì vậy, người dân sẽ không có nhiều điều kiện để đầu tư vào phân bón cho các loại cây trồng như khi được giá. Ngoài ra, theo ước tính, lượng phân bón nhập khẩu tồn kho trong nước đang ở mức 1 triệu tấn. Các công ty sản xuất lượng tồn kho cũng tương đương 1 triệu tấn.Thêm vào đó, Những bài học kinh nghiệm của năm trước sẽ khiến cho nhiều doanh nghiệp không dám mạo hiểm đầu cơ găm hàng chờ tăng giá. Thời điểm tháng 7-8/2008 giá phân bón trên thế giới tăng lên mức 800USD/tấn nhiều doanh nghiệp đã không bán ra, nhưng chỉ đến tháng 11-12/2008 giá bán chỉ còn 250 USD nhiều doanh nghiệp vẫn buộc phải bán để thu hồi vốn”, anh Thiện nhìn nhận. Ông Tiến cũng cho biết thêm, hiện giá bán phân bón NPK 16-16-8 của Tổng công ty này so với cuối năm 2008 còn giảm khoảng 15%, trước giá bán ra là 8.000 đồng/kg, nay chỉ còn 7.000 đồng/kg. Đại diện Công ty Phân lân Nung chảy Văn Điển thì cho hay: Trước Tết giá bán phân lân của công ty là 2.700 đồng/kg, nay giá bán là 2.400 đồng/kg. Ngoài ra, để chia sẻ khó khăn với bà con nông dân, công ty còn đang có chương trình trợ giá từ 100.000 – 400.000 đồng cho cước vận chuyển mỗi tấn phân bón tùy theo địa bàn. Hộ ít nhất được hỗ trợ 50kg phân bón cho 3 sào lúa, hộ cao nhất 150kg phân bón cho 1ha lúa. Hàng trăm ha lúa Đông xuân năm nay của xã An Lạc được Báo Nông thôn Ngày nay hỗ trợ phân bón có khả năng cho mùa vàng bội thu. Trước đó, Báo Nông thôn Ngày nay cũng đã tặng 50 suất quà gồm quần áo ấm, chăn, giày ủng, bánh kẹo cho trẻ em thôn Choong Thèn, xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Một số hình ảnh Báo Nông thôn Ngày nay, điện tử Dân Việt hỗ trợ phân bón cho nông dân xã An Lạc Lục Yên, Yên Bái:Người dân xã An Lạc Lục Yên, Yên Bái được nhận từ 50kg đến 150kg phân bón.12 tấn phân NPK hỗ trợ 200 hộ nông dân 3 thôn xã An Lạc.Người dân tập trung đầy đủ để nhận phân bón về chăm sóc lúa vụ. Xuân Nam. 1. Thời vụ Gieo hạt từ tháng 10, tháng 11 đến tháng 1 năm sau. Vụ gieo tháng 10, tháng 11 sẽ ra quả vào tháng 12, tháng 1. Vụ gieo tháng 12, tháng 1 sẽ ra quả vào tháng 2, tháng 3. Ở miền Bắc trong vụ đông, điều chỉnh vụ gieo sao cho khi cây ra hoa tránh được rét để tăng khả năng thụ phấn và đậu quả. Gieo sớm quá hoặc gieo muộn hơn, lúc ra hoa, quả gặp rét hoặc mưa sớm sẽ thất thu, cây mau rạc. 2. Làm đất và trồng Bí đỏ có bộ rễ rất phát triển nên có khả năng chống hạn rất cao. Do đặc điểm này, muốn trồng bí đỏ đạt năng suất cao cần phải làm đất sâu và kỹ, độ pH 5,5 - 7,5. Trồng bí đỏ theo những hốc thẳng hàng, hốc sâu 30 - 40 cm, rộng 40 - 50 cm, cách nhau từ 2 đến 3 m tùy theo đất xấu hay tốt; giữ mật độ 2.000 - 2.500 cây/ha 70 - 90 cây/sào Bắc bộ, mỗi hốc gieo 5 - 6 hạt cách đều nhau, gieo hạt xong lấp lên một lớp đất mỏng 2 - 3 cm rồi tưới nước giữ ẩm. Bón lót cho bí đỏ chủ yếu là bón theo hốc, sau khi bổ hốc rồi để 2 -3 ngày cho hả đất rồi mới bón phân, bón xong trộn với đất đảo đều, lại để 2 - 3 hôm nữa mới gieo hạt. 3. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây bí đỏ Tính theo một sào Bắc bộ là 360 m 2. + Bón lót: Phân chuồng 600 - 700 kg nếu đất chua bón thêm 25 - 30 kg vôi bột. NPK-S 5.10.3-8: bón 12 - 15 kg. + Bón thúc 1: NPK-S 12.5.10-8: bón 10 - 12 kg. + Bón thúc 2: NPK-S 12.5.10-8: bón 10 - 12 kg. Tính cho 1 ha: + Bón lót: Phân chuồng 15.000 - 18.000 kg nếu đất đồi, đất chua bón thêm 600 - 800 kg ha vôi bột vào lúc làm đất. NPK-S 5.10.3-8: Bón 330 - 415 kg. + Bón thúc 1 khi cây cao độ 40 - 50 cm: NPK-S 12.5.10-8: bón 280-330 kg. + Bón thúc 2 ở thời kỳ ra nụ hoa tập trung để cây có thể đậu quả nhiều, quả to và chắc hơn: NPK-S 12.5.10-8: bón 280 - 330 kg. 4. Chăm sóc Tưới nước, bấm ngọn, nhánh, tỉa hoa đực và lá vàng. Ở giai đoạn cây con cần tưới nước giữ ẩm đất 50 - 60% độ ẩm đồng ruộng. Khi bí đỏ bò dài trên dưới 1 m thì lấy đất chặn lên các đốt dây để tăng thêm rễ phụ làm tăng khả năng hút dinh dưỡng và giữ cho cây khỏi bị gió lay làm dập thân cây, hại hoa quả. Cần bấm ngọn làm rau ăn chỉ để lại mỗi cây 2 - 4 nhánh. Hoa đực thường ra trước hoa cái. Số hoa đực rất nhiều so với hoa cái nên khi hoa cái đã thụ tinh xong cần cắt bỏ bớt hoa đực, tỉa bỏ bớt các nhánh con kém phát triển, vặt bỏ các lá già mọc chen chúc để thêm thoáng cho cây, ong bướm dễ tìm hoa, tăng thêm khả năng thụ phấn thụ tinh và đậu quả cho cây bí đỏ. Thụ phấn bổ khuyết cho hoa cái: Trên 1 cây bí đỏ hoa đực và hoa cái thường không nở cùng lúc, trong nhiều trường hợp khi đầu nhụy hoa cái có khả năng tiếp nhận hạt phấn tốt thì hoa đực đã tàn, sức sống của hạt phấn đã kém, do đó tỷ lệ đậu quả không cao. Vậy cần phải thụ phấn bổ khuyết cho cây bí đỏ. Tiến hành vào lúc hoa cái nở nhiều; khoảng 7 - 9 giờ sang ngắt hoa đực, bỏ hết đài và cánh hoa rồi nhấn nhị đực lên đầu vòi nhụy của hoa cái, hay lấy panh cặp ít bong chấm nhẹ phấn ở nhị đực rồi quét lên nuốm nhụy cái. Chọn ngày nắng ráo để thụ phấn bổ khuyết chắc chắn tỷ lệ đậu quả trên cây bí đỏ sẽ cao. Sau khi thụ phấn thụ tinh xong, quả non phát triển. Tùy theo yêu cầu mà có thể hái quả ở các độ tuổi khác nhau. Nếu trên cây đậu nhiều quả thì phải tỉa bớt khi còn non để tập trung dinh dưỡng nuôi số quả còn lại.. Riêng tại An Giang, giá phân DAP bán lẻ đã giảm khoảng 79%, từ mức 18.795 đồng/kg năm 2008 xuống còn 10.500 đồng/kg trong 6 tháng đầu năm 2009. Giá phân u-rê cũng giảm 29%. DAP là loại phân có mức giá giảm mạnh nhất trong sáu tháng qua. Phân u-rê, hai tuần trở lại đây cũng bắt đầu có xu hướng giảm. Giá tại Trà Vinh là 6.800 đồng/kg, tại Cần Thơ là 6.200 đồng/kg... Giá phân SA cũng bắt đầu giảm mạnh tại thời điểm này ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Dự báo, trong thời gian tới, giá phân bón tiếp tục xu hướng giảm. Sức mua trên thị trường giảm sút. Nhiều nhà máy giảm sản lượng, trong khi các đại lý tiêu thụ chậm. Tại nhiều đại lý phân bón ở đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng ế ẩm kéo dài trong thời gian gần đây. Riêng phân NPK, lượng bán ra giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008. Nguyên nhân là rút kinh nghiệm sau cơn sốt phân bón năm 2008, làm nhiều nông dân lao đao, năm nay, nhiều nông dân mua phân bón dự trữ. Đến chính vụ hè thu, bà con không còn nhu cầu nữa. Còn những hộ nhỏ lẻ không có vốn, mua chịu lãi đến cuối vụ thì lại mua nhỏ giọt, nhu cầu đến đâu mua đến đó để rút ngắn thời gian chịu lãi. Nguyên nhân thứ hai là tại đồng bằng sông Cửu Long, nhiều địa phương chưa triển khai xuống giống vụ lúa mùa 2009. Theo Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang, vụ hè thu nông dân thường ít bón phân hơn vụ đông xuân, với lượng bón khoảng 250 đến 270kg/ha. Theo thường lệ, nông dân sẽ giảm phân đạm, tăng phân lân và ka-li để giúp lúa cứng cây, ít đổ ngã do vụ hè thu thường có mưa bão nhiều. Đối với nông dân áp dụng tốt quy trình 3 giảm 3 tăng thì số lượng phân bón sử dụng có thể ít hơn 30 đến 50 kg so với bình thường. Một lý do nữa dẫn đến giá phân bón giảm là nguồn cung phân bón trên thế giới cũng khá dồi dào. Giá phân bón trên thế giới thời điểm này đã giảm 10 đến 50 USD/kg, hiện ở mức 650 USD/tấn giá tại cảng Ấn Độ. Trong khi đó nhu cầu phân bón của hầu hết các nước cũng không tăng. Trong thời gian ngắn tới đây, cung và cầu phân bón trên thế giới vẫn chưa thể cân bằng được. Cũng theo tính toán của Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn, nhu cầu phân bón sáu tháng đầu năm khoảng bốn triệu tấn. Trong đó nhu cầu u-rê 900.000 tấn, SA là 400.000 tấn, ka-li là 320.000 tấn, DAP là 300.000 tấn, NPK là 1,5 triệu tấn. Nếu các nhà máy tiếp tục duy trì sản xuất như trong sáu tháng qua, thì sáu tháng cuối năm, nguồn cung sẽ vượt cầu. Nhu cầu nhập khẩu phân bón sẽ giảm. Cụ thể, u-rê chỉ cần 0,43 triệu tấn, DAP khoảng 100.000 tấn và NPK dự tính là 270.000 tấn. Nguồn phân bón sáu tháng cuối năm sẽ khá dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất của bà con. Đồng thời, giá phân bón trên thị trường trong thời gian tới vẫn được dự báo là sẽ ổn định ở mức thấp. Mặc dù vẫn có một số yếu tố tiềm ẩn đến tăng giá như giá dầu thô hồi phục.Theo tính toán, hệ số tăng giá giữa dầu thô và phân bón là 0,95%. Ngoài ra, nhiều nhà sản xuất phân bón trên thế giới dự định cắt giảm nguồn cung hay chính sách tăng thuế xuất nhập khẩu đối với một số loại phân bón... Thị trường phân bón Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Công nghiệp sản xuất phân bón nội địa mới chỉ đáp ứng được khoảng 50 đến 60% nhu cầu về u-rê, 100% nhu cầu phân lân nung chảy và NPK từ lân nung chảy. Các loại phân khác như SA, Kali... Hiện nay đang phải nhập khẩu 100%. Đặc biệt, thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, chiếm tới hơn 40% tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của Việt Nam. Do đó các chính sách điều tiết xuất nhập khẩu phân bón của Trung Quốc có tác động nhanh chóng và trực tiếp tới thị trường Việt Nam. Do không chủ động được nguồn cung nên chuyện thiếu, thừa thường xuyên xảy ra. Bên cạnh đó, việc điều tiết thị trường chưa được thực hiện tốt, các số liệu dự báo cung cầu còn có sự chênh lệch lớn. Chính vì vậy, để thị trường phân bón ổn định hơn, đòi hỏi có cơ quan điều tiết hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu và dự trữ phân bón trên bình diện tổng thể để cân đối cung cầu trong nước, tránh tình trạng các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu tự cân đối như hiện nay. Ánh Tuyết. Về tình hình sản xuất lúa vụ mùa, bà Nguyễn Thị Thoa - Trưởng phòng Trồng trọt Sở NNPTNT Hà Nội cho biết: Thời tiết thuận lợi, thỉnh thoảng lại có mưa làm cho không khí dịu mát, nước đủ, mạ non nên lúa bén rễ hồi xanh rất nhanh. Trà lúa cấy sớm từ 15 – 20.6 đã bắt đầu đẻ nhánh, do vậy sau cấy 10 ngày cần bón thúc và cào cỏ cho lúa. Đất trồng lúa chủ yếu là đất chua nên loại phân bón phù hợp là phân đa yếu tố NPK Văn Điển. Bón phân này giúp cây lúa tốt bền khỏe mạnh, ngoài giúp tăng năng suất và chất lượng còn làm cho cây lúa cứng cây chống đổ và hạn chế bệnh bạc lá thường gây hại nhiều trong vụ mùa”. Phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng cho lúa có 2 loại: Phân bón lót và phân bón thúc. Loại phân bón lót NPK 6.11.2: 1 sào bón 20kg, bón trước khi bừa cấy hoặc bón xong cào một lượt trước khi cấy. Bón phân phải vùi sâu vào trong đất để rễ dễ hấp thu được phân bón và đỡ mất phân vì bón trên mặt ruộng thì phân đạm và kali hòa tan nhanh với nước, thời tiết nắng nóng, hay có mưa rào sẽ khiến phân bị bốc hơi và rửa trôi. Bón lót cũng không sợ mất phân vì khi bừa hoặc cào ruộng phân được vùi sâu, có tác dụng giữ phân rất tốt. Phân đa yếu tố NPK Văn Điển 6.11.2 có thành phần các chất dinh dưỡng cao, với tỷ lệ nhiều lân P2O5: 11% phù hợp với giai đoạn đầu cây lúa cần nhiều lân để thúc đẩy phát triển bộ rễ và đẻ nhánh. Tỷ lệ canxi CaO cao: 20%, có tác dụng cải tạo đất chua và giúp phân hủy nhanh rơm, rạ chưa kịp mục nát vì vụ mùa gặt lúa xuân xong làm đất vội và cấy ngay. Ông Đỗ Xuân Quân - Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Thanh Oai chia sẻ: Diện tích lúa đã cấy vụ mùa đa số được bón lót bằng phân đa yếu tố NPK Văn Điển, nhất là những diện tích đồng trũng. Qua từng vụ, diện tích sử dụng phân Văn Điển ngày càng tăng vì nông dân thấy cây lúa tốt bền, đẻ nhánh khỏe, khi thu hoạch cây óng, vàng lá gừng nên lúa đẫy hạt, sáng quả, năng suất cao”. Có phân tốt nhưng phải bón đúng kỹ thuật mới đem lại hiệu quả, vì theo đánh giá của các nhà kỹ thuật thì hiện nay trong thâm canh lúa khâu làm sai nhất, gây lãng phí nhất là sử dụng loại phân bón và cách bón không thích hợp. Do nhiều năm qua đa số nông dân Hà Nội đã làm quen với phân Văn Điển và qua nhiều lớp tập huấn hướng dẫn sử dụng phân bón NPK Văn Điển do công ty phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tổ chức, nên nhìn chung bà con đã bón phân đúng cách. Ông Mai Trung Trực - Chủ nhiệm HTX Dân Hòa, huyện Thanh Oai cho hay: HTX bắt đầu cấy từ 22.6, đến nay cơ bản đã cấy xong 364ha lúa. Nhiều vụ qua, khoảng 70% diện tích lúa của HTX được bón NPK Văn Điển. Vụ mùa này hầu hết diện tích lúa đã bón lót phân NPK Văn Điển 20kg/sào. Hiện nay lúa trà đầu đã đẻ nhánh nên HTX chỉ đạo cần bón thúc ngay 7 - 8kg phân NPK Văn Điển 1 sào”. HTX Đông Phương Yên Chương Mỹ mới làm quen với phân NPK Văn Điển từ năm 2013, nhưng đã có 1/3 diện tích lúa vụ mùa này được bón lót phân NPK Văn Điển. Ông Đỗ Văn Dũng - Chủ nhiệm HTX cho hay: Đa số nông dân đã bón phân lót và phân thúc đúng kỹ thuật, nhưng vẫn còn một số hộ do sợ mất phân nên không bón lót, cá biệt vẫn còn diện tích bón thúc muộn: Lúa mùa sau cấy 15 - 20 ngày mới bón thúc. Thời gian này ban quản lý HTX thường xuyên tuyên truyền, phổ biến trên loa truyền thanh để khuyến cáo bà con sử dụng phân NPK Văn Điển và bón đúng kỹ thuật”. Còn ông Nguyễn Duy Nam - Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Chương Mỹ cho biết: Vụ xuân vừa qua thời tiết âm u kéo dài nên bón phân NPK Văn Điển cho lúa càng phát huy hiệu quả vì trong phân có magiê giúp cây lúa tăng cường khả năng quang hợp. Ngoài ra phân còn có silic tăng khả năng kháng sâu bệnh, nên diện tích lúa bón phân NPK Văn Điển bệnh bạc lá giảm hẳn. Với kết quả như vậy nên diện tích bón phân NPK Văn Điển vụ mùa này tăng lên nhiều”. Bón phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng loại bón lót và bón thúc cho lúa đủ số lượng sẽ không phải bón thêm một loại phân bón nào khác. Tính ưu việt của phân NPK Văn Điển bón cho lúa là lúa lên chậm nhưng tốt bền, thân lá màu xanh sáng, thoáng cây, đẻ nhánh khỏe, tỷ lệ bông hữu hiệu cao, lá đòng tươi vàng lá gừng đến lúc chín, bông to, hạt mẩy, năng suất tăng và hạn chế sâu bệnh. Thanh long có khả năng thích ứng với các đất có độ chua pH rất khác nhau, nhưng do xuất xứ từ vùng khô hạn nên pH gần trung tính trên dưới 6 sẽ thích hợp hơn cho cây. Chất lượng thanh long phụ thuộc nhiều vào phân bón, nếu chế độ bón phân giàu đạm ít kali thường cho trái có độ ngọt kém, mau hư thối, khó cất trữ và vận chuyển. Ngược lại chế độ bón phân cân đối đạm và kali hoặc giầu kali sẽ cho trái có độ ngọt cao hơn, trái cứng chắc và lâu hư thối, dễ cất trữ, vận chuyển. Tuy nhiên, chế độ phân bón tốt phải bao gồm cả việc cung cấp cân đối giữa phân hữu cơ và vô cơ; cân đối giữa các thành phần dinh dưỡng đa lượng NPK; cân đối giữa dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng.Cũng giống như những cây ăn quả khác, cây thanh long ở thời kỳ kiến thiết cơ bản KTCB có nhu cầu phân bón khác so với cây ở thời kỳ kinh doanh KD. Thời kỳ này cây cần được ra rễ sớm, phát triển bộ rễ tốt, làm cơ sở cho việc huy động dinh dưỡng, giúp cây sinh trưởng nhanh khỏe, sớm bước vào thời kỳ kinh doanh. Nên việc bón lót phân chuồng hoai mục, hoặc phân hữu cơ giầu humat phân hữu cơ sản xuất từ than bùn trước khi trồng là rất cần thiết. Bón lót một lượng vôi hay phân lân nung chẩy cũng là một biện pháp rất tốt và rất cần thiết, giúp điều chỉnh pH đất về giá trị thích hợp cho cây sinh trưởng như đã nói ở trên. Mặc dù phân hữu cơ và vôi cũng cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây canxi, magie, các nguyên tố vi lượng nhưng ta chỉ gọi chúng là các chất cải tạo đất. Chúng ta vẫn phải coi phân NPK là loại phân chủ yếu, cần phải cung cấp cho cây ở từng thời kỳ khác nhau.Thời kỳ KTCB cần có tỷ lệ đạm và lân cao, kali trung bình hoặc thấp, vì lúc này cây chỉ sinh trưởng thân cành và bộ rễ mà chưa cho quả. Trước khi trồng thanh long, nếu muốn cây tốt lâu bền, ta cần tạo cho cây một bồn dinh dưỡng” quanh gốc càng rộng và sâu mầu càng tốt. Tất nhiên bồn” rộng nhất cũng chỉ đến mức bề rộng dự kiến của tán cây sau này mà thôi. Trong bồn này ta bón phân hữu cơ và vôi, đồng thời trộn đều với đất. Độ sâu lớp đất trong bồn nên từ 25-30 cm. Độ pH đất trong bồn nên điều chỉnh lên khoảng 5,5-6,5. Nhưng để tránh đầu tư 1 lần gây tốn kém không cần thiết, ta có thể mở rộng bồn hàng năm tùy theo sức sinh trưởng của tán cây.Thời kỳ kinh doanh, cây vừa sinh trưởng rất mạnh, vừa ra hoa, ra trái nên cần rất nhiều dinh dưỡng. Ngoài việc phải bón phân hữu cơ và vôi hàng năm, ta còn phải bón một lượng phân NPK theo các thời kỳ khác nhau. Trong thời gian nuôi cành, tạo tán, cây cần được bón các loại phân NPK có tỷ lệ đạm cao, lân vừa phải hop quy, phan bon npk và kali thấp. Khi cây cần phân hóa mầm hoa ta bón phân có hàm lượng đạm trung bình, lân cao và kali trung bình. Để thúc đẩy quá trình phân hóa mầm hoa và ra hoa dễ dàng người ta còn phun bổ sung loại phân bón lá có hàm lượng lân và kali cao như 6-30-30 hay MKP mono-potassium phosphate. Bước sang giai đoạn nuôi trái ta bón phân có hàm lượng đạm và kali cao, lân thấp. Để tạo thuận lợi cho bà con nông dân sử dụng phân bón đúng, vừa qua Xí nghiệp Phân bón Chánh Hưng thuộc Công ty Phân bón Miền Nam – hiệu CON Ó” đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Thanh Long – Bình Thuận xây dựng một số công thức phân bón chuyên dùng cho thanh long. Cách sử dụng loại phân chuyên này như sau:Với thanh long thời kỳ KTCB:Năm thứ nhất: Bón 1kg/trụ phân khoáng hữu cơ + 0,5kg/trụ phân trung lượng TL Chánh Hưng 2 lần, vào trước khi trồng và 6 tháng sau trồng. Bón phân NPK 20-20-15 Chánh Hưng với liều 80g/trụ vào lúc 1 tháng sau trồng, và sau đó định kỳ 1 tháng/lần.Năm thứ 2: Bón 1,5kg/trụ phân khoáng hữu cơ + 1kg/trụ phân trung lượng TL Chánh Hưng 2 lần, vào đầu và cuối mùa mưa. Bón phân NPK 20-20-15 Chánh Hưng với liều 150g/trụ theo định kỳ 1 tháng/lần.Với thanh long thời kỳ KD:Bón 2kg/trụ phân khoáng hữu cơ + 1-1,5kg/trụ phân trung lượng TL Chánh Hưng 2 lần, vào đầu và cuối mùa mưa.Bón 2 loại phân chuyên dùng cho thanh long là Thanh Long 1.4 17-17-17 TL và Thanh Long 5.8 18-10-18 TL theo các thời kỳ. Từ đầu tháng 9 đến nay, phân bón đã 2 lần tăng giá với mức tăng bình quân từ 20.000-50.000 đồng/bao 50kg so với tháng trước. Trong đó, urê Phú Mỹ tăng từ 15.000-25.000 đồng/bao.Tương tự, phân DAP Trung Quốc tăng thêm khoảng 10.000-40.000 đồng/bao. Tuy nhiên, đó chỉ mới là giá bán phân tồn kho, phân mới nhập về tại các cửa hàng còn có giá cao hơn. Hiện phân NPK Đầu Trâu 20-20-15 Bình Điền và NPK 20-2015 Cò Bay ở mức 350.000-360.000 đồng/bao; phân NPK 16-16-8 Việt Nhật... Trong khi đó, thời điểm này, ĐBSCL đang trong mùa lũ, nhu cầu tiêu thụ phân bón gần như không có.Theo phân tích của các nhà bán lẻ, bên cạnh sự ảnh hưởng của thị trường thế giới, giá phân bón Việt Nam lên cao còn còn có yếu tố đầu cơ của một số nhà phân phối. Nhiều người buôn bán phân bón ở ĐBSCL đang phàn nàn về việc cung cấp phân bón có địa chỉ của Nhà máy đạm Phú Mỹ, khiến nhiều cửa hàng kinh doanh đành phải mua lại từ một vài nhà phân phối với giá cao hơn. Vì vậy, khả năng khan hàng và sốt giá phân bón cục bộ trong vụ đông xuân 2007-2008 là hoàn toàn có thể xảy ra.
chứng nhận hợp quy phân vi lượng Chiều 10.5.2012, phòng An ninh kinh tế của công an Hà Nội phối hợp với đội quản lý thị trường số 17 của thành phố Hà Nội đã bắt quả tang vụ sản xuất phân bón NPK giả bằng bột đá vôi. CôngThương - Vụ việc được phát hiện tại xưởng sản xuất của công ty cổ phần Đầu tư Khoa học kỹ thuật và công nghệ Việt Pháp tại khu tập thể công trình đường thủy 1, thôn 3, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Tại thời điểm kiểm tra, dây chuyền sản xuất, đóng gói sản phẩm NPK và vận chuyển phân bón giả vẫn đang hoạt động. Số phân bón tổng hợp NPK thành phẩm giả bị phát hiện khoảng 60 tấn. Ngoài ra, lực lượng chức năng còn phát hiện 800 kg Kali, 400 kg đạm, 22 kg bột Canxi nhẹ bột đá… số nguyên liệu này không có hóa đơn, chứng từ; 140 bao NPK in nhãn công ty Việt Pháp; 21 bao phân bón NPK nhãn công ty Supe photphat và hóa chất Lâm Thao… Ông Nguyễn Văn Thư, quản đốc phụ trách sản xuất cho biết, công ty này bắt đầu sản xuất phân bón giả từ năm 2011, phân giả NPK chủ yếu bán cho các địa phương lân cận Hà Nội. Giá bán loại phân NPK giả giao động từ 800 ngàn đồng/tấn đến 3,2 triệu đồng/tấn. Kết quả kiểm tra các mẫu phân bón giả nêu trên có các thành phần cơ bản chính không đạt yêu cầu như trên vỏ nhãn bao bì mà thành phần chủ yếu là bột đá vôi. Chính phủ Mỹ bị chỉ trích nếu cho phép Shell khai thác dầu ở Bắc Cực Kỷ niệm Ngày Khí tượng thế giới Dồn sức chống hạn ở Tây Nguyên. CôngThương - Với một thị trường phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu, mặt hàng phân bón vẫn luôn là nỗi lo của người nông dân và cơ quan quản lý bởi sự trồi sụt thất thường của nó. Thông tin từ Bộ Công Thương cho thấy, giá bán lẻ phân bón trong nước trong tháng 7/2009 ổn định, giá phân lân ở mức 2.500 đồng/kg, phân NPK là 12.200 đồng/kg. Tuy nhiên, do giá nông sản thời gian qua xuống thấp nên việc tiêu thụ phân bón trong nước trầm lắng, tồn kho tăng. Sản xuất phân lân và NPK của tháng 7 tiếp tục giảm so với tháng 6/2009 và so với cùng kỳ, cụ thể: phân lân giảm 6,5% so với tháng 6 và 6,3% so với cùng kỳ; phân NPK giảm 13,7% so với tháng 6 và 10,2% so với cùng kỳ. Do phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu nên giá phân bón trong nước cũng có nhiều biến động, nhu cầu tiêu thụ của thị trường lại gắn với yếu tố mùa vụ nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Theo ước tính của các chuyên gia, năm 2009 ngành nông nghiệp cần khoảng 8,5 triệu tấn phân bón, thế nhưng nguồn cung từ thị trường nội địa hiện chỉ đáp ứng được 50-60% nhu cầu về phân u-rê, 100% phân lân nung chảy và NPK từ lân nung chảy còn các loại phân khác như SA, kali thi phải nhập khẩu hoàn toàn. Tại cuộc hội thảo về thị trường phân bón do Trung tâm thông tin Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tháng 7/2009, nhiều ý kiến cho rằng: rất khó để đưa ra một sự báo chính xác cho ngành phân bón Việt Nam bởi thị trường chưa có chiến lược phát triển dài hạn, các văn bản quản lý điều hành đều có tính sự vụ nên sẽ rất khó trở tay” nếu thị trường có biến động. Bên cạnh đó, việc điều tiết thị trường chưa được thực hiện tốt, các số liệu dự báo cung cầu còn có sự chênh lệch lớn; chưa có cơ quan nào đứng ra điều tiết hoạt động sản xuất, xuất khẩu và dự trữ phân bón để cân đối cung cầu. Các doanh nghiệp sản xuất phân bón cho rằng, từ đầu năm đến nay giá phân bón thế giới duy trì khá ổn định và trong xu hướng giảm thì thị trường trong nước lại giảm rất chậm, thậm chí có chiều hướng tăng lên. Dự báo những tháng cuối năm 2009, giá mặt hàng này có thể tăng do chi phí đẩy doanh nghiệp nhập khẩu phải bù thêm chi phí khi mua USD ngoài thị trường tự do. Bên cạnh đó, các yếu tố về thuế và việc tăng giá thành nguyên liệu nội địa cũng sẽ làm đội” giá sản phẩm. Chính bởi thế, để bình ổn thị trường thì phải hướng đến nội lực của chính các nhà sản xuất trong nước. Để có được một thị trường ổn định, đảm bảo chất lượng thì nhà nước cần ưu tiên đầu tư, liên doanh hoặc tư nhân hóa phát triển phân lân nung chảy vì nhu cầu sản phẩm này ở Việt Nam là rất lớn, hiện các doanh nghiệp mới chỉ đáp ứng được chưa tới 50%. Trước mắt, theo Bộ Công Thương, để đảm bảo đủ phân bón cho vụ hè thu và có sản phẩm gối đầu cho vụ mùa ở miến bắc sắp tới, các doanh nghiệp sản xuất cần tiếp tục bố trí sản xuất hợp lý, duy trì và đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là với sản phẩm phân đạm urê. Doanh nghiệp cũng cần tổ chức phân phối và bán phân bón trước, thu tiền vào cuối vụ cho nông dân; đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại hướng tới xuất khẩu sang thị trường tiềm năng trong khu vực và các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản. Được biết, sau nhà máy sản xuất phân bón DAP tại Hải Phòng vừa đi vào sản xuất với công suất 330.000 tấn/năm, trong năm 2009 sẽ có một nhà máy nữa tại Lào Cai được đầu tư xây dựng với tổng vốn 5.000 tỷ đồng. Duy Minh. Tổng Giám đốc Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí PVFCCo Cao Hoài Dương cho biết, quý III năm nay Tổng Công ty sẽ khởi công xây dựng nhà máy sản xuất NPK chất lượng cao để thay thế hàng nhập khẩu. Theo ông Dương, hiện công suất NPK của cả nước cung vượt cầu hơn 4 triệu tấn, tuy nhiên phần lớn phân NPK được các cơ sở tư nhân sản xuất” pha trộn thô sơ, không đảm bảo chất lượng, đặc biệt là dòng NPK hợp quy, phân bón npk chất lượng cao dùng chăm bón các loại cây trồng đặc sản vẫn phải nhập khẩu mỗi năm 400.000 tấn. Do vậy việc đầu tư một nhà máy với công nghệ cao của Tây Ban Nha sẽ được PVFCCo sớm triển khai và vận hành vào năm 2016. Cũng theo lãnh đạo Tổng Công ty, để tạo thị trường cho nhà máy, Đạm Phú Mỹ đã tung ra thị trường dòng sản phẩm phân tổng hợp NPK được hợp tác gia công tại Nga. Năm 2013, PVFCCo đạt lợi nhuận 2.500 tỷ đồng, vượt 19% kế hoạch và về đích trước 3 tháng. Sản lượng sản xuất cũng đạt 821.000 tấn, về đích trước 20 ngày. Cũng theo doanh nghiệp này, sự kiện đáng lưu ý trong năm 2013 đối với Đạm Phú Mỹ là việc bảo dưỡng tổng thể Nhà máy Đạm Phú Mỹ tháng 9/2013 và việc Nhà máy Đạm Phú Mỹ cán mốc 7 triệu tấn ngày 20/12/2013. Linh Đan .. DVT.vn - Giữa tháng 6/2011, DPM sẽ tung ra thị trường dòng sản phẩm phân tổng hợp NPK. Tổng công ty phân bón và hóa chất dầu khí Mã: DPM thông báo về kế hoạch sản phẩm mới và xây dựng nhà NPK Phú Mỹ, công suất 400.000 tấn, tổng vốn đầu tư khoảng 63 triệu USD.Nhà máy do Tổng công ty làm chủ đầu tư xây dựng tại khu công nghiệp Phú Mỹ 1, bên cạnh nhà máy đạm Phú Mỹ.Nhà máy NPK sử dụng công nghệ phối trộn tạo hạt, ve viên nóng chảy thùng quay để tạo hạt phân NPK có chất lượng cao. Tổng công ty dự kiến sẽ khởi công nhà máy trong quý III/2011 và hoàn thành vào năm 2013. Đồng thời, giữa tháng 6/2011, DPM sẽ tung ra thị trường dòng sản phẩm phân tổng hợp NPK để chuẩn bị thị trường cho dãy sản phẩm của nhà máy NPK.NPK Phú Mỹ được sản xuất tại nhà máy của công ty phân bón Việt Nhật theo biên bản hợp tác giữa 2 công ty trước đó. Đến cuối năm 2011, dự kiến sản phẩm mới mức tiêu thụ khoảng 36.500 tấn.Thùy Trang. Tên khoa học là Penniseyum purpureum sp. Gồm có: Pennesetum pupureum Kingrass, P.p. Selection, P.p. Malagasca. Ngoài ra còn gọi theo một số tên khác như cỏ Napier, Gigante Costa Rica hay Mfufu Châu Phi. Cây cỏ voi có nguồn gốc tại Nam Phi, phân bố rộng ở các nước nhiệt đới trên thế giới. Quê hương lâu đời của cỏ voi là Uganda 10 o vĩ độ Bắc-20 o vĩ độ Nam. Cỏ Voi được nhập vào Australia 1914, Cuba 1917, Brasil 1920, Mỹ từ 1993, …ở Việt Nam cỏ Voi còn được gọi là cỏ Huế vì lần đầu tiên vào năm 1908 cỏ Voi được đưa từ Huế đưa ra Bắc. Hiện nay cỏ Voi đã được trồng ở nhiều nơi trên cả nước Viện Chăn nuôi, Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì, Nông trường bò sữa Đức Trọng, Nông trường bò sữa Phù Đổng…Khu vực gia đình: các hộ nông dân nuôi bò sữa vùng Hà Nội, vùng thành phố Hồ Chí Minh, vùng Ba Vì, vùng miền núi phía Bắc…. Đây là một trong những giống cỏ cho năng suất cao nhất trong điều kiện thâm canh ở Việt Nam. 2. Đặc điểm sinh trưởng Là loại cỏ trồng lưu niên, thích hợp trên đất ẩm ướt, bìa rừng và các loại đất trồng trọt ở hầu hết các nước vùng nhiệt đới, nhiệt độ tối cao cho cỏ sinh trưởng là 25-40 o C và tối thấp là 15 o C, tốt nhất là 21-28 o C. Thân cỏ mọc thẳng đứng, có thể cao từ 1,8 m đến 3,6 m. Các nhánh luôn mọc hướng về phía trên. Phiến lá rộng 20-40 cm và bẹ lá không có lông, mép lá dày và sáng bóng. Cỏ voi vẫn có thể sinh trưởng tốt trên độ cao 2000 m so với mặt biển. Cỏ sinh trưởng chính vào các tháng mùa mưa khi nhiệt độ và ẩm độ cao. Cỏ voi cần một lượng nước rất cao và trồng thích hợp ở những vùng có lượng mưa khoảng 1.500 mm. Khi lượng mưa không đạt trên 1000 mm thì cần thiết phải tưới nước bổ sung cho cây phát triển. 3. Thời vụ trồng Thời Hop quy, phan bon npk vụ gieo trồng có thể vào các tháng mùa mưa: từ tháng 4 đến tháng 9 trong năm nhưng tốt nhất trồng vào tháng 4, 5, 6 đầu mùa mưa. 4. Làm đất khoảng cách trồng Cỏ có thể chịu được khô hạn vì có bộ rễ khỏe và ăn sâu nhưng không chịu được đất có bùn, ngập úng và đất mặn. Đất trồng cỏ voi tốt nhất ở loại đất thấp có độ ẩm cao hơn một số cây cỏ trồng khác, có tầng canh tác dày, tơi xốp và hàm lượng mùn cao, pH=6-7 là tốt nhất. Có thể duy trì tuổi thọ của thảm cỏ voi 5-8 năm cho nên việc chuẩn bị đất trồng cỏ cần được quan tâm. Đất trồng cỏ có thể được cày bừa kỹ bằng máy, cầy bằng trâu bò đảo lại 2 lần với độ sâu 20-25 cm, tiếp theo là làm tơi và san phẳng mặt ruộng bằng bừa đĩa hoặc bừa thủ công sau rạch hàng để gieo hạt. Phân bón lót được trộn đều với đất và rải đều trong lòng rãnh hàng trước khi trồng, hom giống được đặt theo lòng rãnh tại độ sâu ít nhất là 15 cm so với bề mặt đất và đầu hom sau đặt kế tiếp vào đuôi của hom trước. Sau đó lấp kín hom giống bằng một lớp đất dày khoảng 7,5 cm, san phẳng bề mặt rãnh trồng và dần lấp đầy rãnh khi cây sinh trưởng. 5. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cỏ Voi Yêu cầu phân bón cho cỏ voi trồng: tùy thuộc vào loại đất đai và phương thức trồng thâm canh hay quảng canh mà số lượng phân bón khác nhau. Cỏ voi có năng suất rất cao 100-500 tấn chất xanh/năm, hàm lượng vật chất khô trong 1 kg chất xanh trung bình 18-25%, hàm lượng N trong lá 7-10%. Cỏ voi phản ứng rất tốt với tỷ lệ N cao đặc biệt năm thứ 3 và năm thứ 4 khi mà hàm lượng nitơ trong đất trồng bị cỏ voi hút cạn kiệt. Liều lượng và thời kỳ bón phân NPK-S Lâm Thao cho nhóm cỏ voi Loại phân Bón lót, Kg Bón thúc sau trồng 10-12 ngày, kg Bón thúc giai đoạn thu hoạch Số lần bón/năm kg/lần Tính cho 1 ha Phân chuồng 15.000-30.000 Phân NPK-S 5.10.3-8 300- 400 Phân NPK-S 10.5.5 250-300 6-8 350-400 Tính cho 1 sào Bắc Bộ 360 m 2 Phân chuồng 500-1.100 Phân NPK-S 5.10.3-8 11-15 Phân NPK-S 10.5.5 9-12 6-8 13-15 Trong khoảng phân bón giới thiệu ở bảng thì tùy điều kiện canh tác mà áp dụng cho thích hợp: nếu trồng thâm canh hoặc đối với đất nghèo dinh dưỡng thì bón mức cao và nếu trồng quảng canh hoặc đất tốt thì bón mức thấp. Bắt đầu từ thời kỳ thu hoạch, số lần bón và lượng bón tính cho 1 năm cũng được giới thiệu ở bảng. Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao cho nhóm cỏ voi hợp lý để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. CÔNG TY CP PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN - Đơn vị đạt 4 danh hiệu anh hùng - Giải thưởng tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO - DN Phân bón duy nhất đạt TOPTEN Thương hiệu Việt 2011 - TOPTEN Sản phẩm vàng Việt Nam 2012 - Địa chỉ: Đường Phan Trọng Tuệ, huyện Thanh Trì, Hà Nội - Điện thoại: 043.688.4489 - Fax: 043.688.4277 - Website: vafco.vn .
13oc>.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét